Trong đó đề ra nhiệm vụ vụ thiết lập Đầu mối thông tin về Hiệp định CPTPP nói riêng và các hiệp định thương mại tự do (FTA) nói chung tại Bộ Công Thương để cung cấp thông tin, hướng dẫn và làm rõ các nội dung cam kết và các vấn đề có liên quan đến Hiệp đinh CPTPP và các FTA mà Việt Nam tham gia.
Cùng với đó là các hoạt động phổ biến Hiệp định CPTPP cho các đối tượng có liên quan (nhân dân, đặc biệt là các đối tượng có thể chịu tác động như nông dân, ngư dân, cơ quan quản lý cấp Trung ương và địa phương, hiệp hội ngành nghề, hợp tác xã, cộng đồng doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ) thông qua các phương tiện truyền thông, trang thông tin điện tử, các lớp tập huấn, hội thảo nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết về nội dung cam kết cũng như các công việc cần triển khai để thực thi hiệu quả Hiệp định CPTPP.
Các cán bộ thuộc cơ quan quản lý nhà nước trong một số lĩnh vực như đầu tư, dịch vụ, hải quan, mua sắm của Chính phủ, phòng vệ thương mại, sở hữu trí tuệ, nông, lâm, ngư nghiệp, lao động, môi trường… sẽ phải được tập huấn về các cam kết cụ thể có liên quan trong Hiệp định CPTPP bảo đảm hiểu rõ, hiểu đúng, từ đó giúp việc thực thi Hiệp định được đầy đủ và hiệu quả.
Một nhiệm vụ chủ yếu khác là nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển nguồn nhân lực. Cụ thể, xây dựng các chương trình hỗ trợ, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các ngành hàng, doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ, nông dân, phù hợp với cam kết quốc tế; đồng thời, chuẩn bị những giải pháp ứng phó, hỗ trợ đối với những ngành hàng, mặt hàng chịu tác động lớn, trực tiếp từ biến động thị trường quốc tế. Hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào mạng lưới sản xuất, chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu.
Bên cạnh đó, đẩy mạnh việc dạy nghề và gắn kết đào tạo với doanh nghiệp; và ứng dụng khoa học, công nghệ trong sản xuất kinh doanh; xây dựng và hoàn thiện các biện pháp kỹ thuật (tiêu chuẩn quốc gia, quy chuẩn kỹ thuật, vệ sinh an toàn thực phẩm, xuất xứ, bảo vệ môi trường…) phù hợp với các cam kết quốc tế để hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp, sản phẩm Việt Nam, và bảo vệ người tiêu dùng.
Đồng thời, tăng cường sử dụng hệ thống cảnh báo sớm trong lĩnh vực phòng vệ thương mại nhằm hỗ trợ cho doanh nghiệp xuất khẩu về nguy cơ bị áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại cũng như chủ động xây dựng các biện pháp phòng vệ thương mại phù hợp với các quy định và cam kết quốc tế để bảo vệ sản xuất trong nước, ngăn chặn các hành vi lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại để bảo vệ lợi ích chính đáng của doanh nghiệp Việt Nam; xây dựng, củng cố cơ chế phối hợp liên ngành, địa phương trong các vụ việc phòng vệ thương mại; hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam ứng phó với các vụ điều tra phòng vệ thương mại với hàng hóa Việt Nam, sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của Hiệp định hoặc các cơ chế khác khi cần thiết nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của doanh nghiệp Việt Nam; và nâng cao năng lực phòng vệ thương mại trong bối cảnh tham gia các FTA thế hệ mới.
10 FTA Việt Nam đang thực thi
Cho đến nay, chúng ta đã tham gia ký kết, thực thi và đang đàm phán 17 hiệp định thương mại tự do (FTA); trong đó đã ký và có hiệu lực 10 FTA song phương và đa phương, với 60 nền kinh tế, chiếm tới 90% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước.
Trong 10 FTA đã thực thi có 7 FTA đa phương, bao gồm:
- Hiệp định Thương mại Hàng hóa ASEAN (ATIGA)
- Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN – Trung Quốc (ACFTA)
- Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN – Hàn Quốc (AKFTA)
- Hiệp định Thương mại tự do ASEAN-Ấn Độ (AIFTA)
- Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện ASEAN – Nhật Bản (AJCEP)
- Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN-Úc-NiuDiLân (AANZFTA)
- Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh Kinh tế Á-Âu (Việt Nam-EAEUFTA)
Và 3 FTA song phương:
- Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản (VJEPA)
- Hiệp định Thương mại tự do song phương Việt Nam – Hàn Quốc (VKFTA
- Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – Chilê (VCFTA)
Tạp chí Công Thương