Phát biểu khai mạc chương trình, TS. Lê Xuân Nghĩa, Viện trưởng Viện Tư vấn phát triển cho biết, biến đối khí hậu đang diễn biến ngày càng phức tạp trên phạm vi toàn cầu và được xem là thách thức lớn nhất mà thế giới phải đối mặt, phải cùng nhau hợp tác chặt chẽ để giải quyết. Trung hòa carbon và sớm đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) trong những năm tới là trọng tâm, là mục tiêu chung của các quốc gia trong cuộc chiến với thách thức lớn nhất này.
Việt Nam là một trong số ít quốc gia bị tác động nghiêm trọng nhất bởi biến đổi khí hậu. Tại Hội nghị COP26, Việt Nam đã đưa ra cam kết sẽ đạt Net Zero vào năm 2050 với nhiều giải pháp lớn để cắt giảm phát thải trong các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, giao thông và năng lượng; bên cạnh đó, chú trọng phát triển các nguồn năng lượng tái tạo như điện gió, điện mặt trời và các biện pháp để tăng cường hiệu quả sử dụng năng lượng.
Ông Nghĩa khẳng định, cam kết Net Zero là hết sức cần thiết để một mặt giảm thiểu tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, thúc đẩy chuyển đổi sang phát triển xanh; mặt khác sẽ giúp Việt Nam tăng cường hợp tác quốc tế, thu hút nguồn lực đầu tư cho các mục tiêu phát triển.
Lộ trình đến Net Zero của Việt Nam không còn dài. 25 năm tới đây sẽ là chặng đường đầy thách thức khi phải thực hiện nhiều mục tiêu kép, vừa nỗ lực giảm phát thải vừa nỗ lực đạt mục tiêu tăng trưởng cao để vươn tới là quốc gia phát triển, có thu nhập cao. Hành trình này rất cần sự chung tay mạnh mẽ của cả cộng đồng.
TS. Nguyễn Tuấn Quang, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, ngay sau COP26, Thủ tướng đã ban hành Đề án thực hiện cam kết Net Zero, gồm 5 giải pháp chính: Thứ nhất, chuyển đổi năng lượng – đây là giải pháp cốt lõi. Việt Nam cần từng bước giảm phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch, thay vào đó là sử dụng năng lượng tái tạo và năng lượng sạch. Tuy nhiên, để thực hiện phải cần sự nỗ lực rất lớn.
Theo ông Quang, bản chất của năng lượng tái tạo là không ổn định – không phải lúc nào cũng có gió hay nắng. Theo thống kê của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), các nhà máy điện mặt trời tại khu vực phía Nam chỉ đạt mức cung cấp ổn định khoảng 5 giờ mỗi ngày; còn ở phía Bắc, con số này chỉ khoảng 3 giờ. Chỉ một đám mây hoặc cơn mưa đi qua cũng có thể khiến toàn bộ hệ thống gián đoạn. Do đó, việc phát triển hệ thống lưu trữ năng lượng là điều kiện bắt buộc để đảm bảo hiệu quả và ổn định.
Thứ hai, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả đi kèm thúc đẩy kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Những mô hình như sản xuất lúa ít phát thải là ví dụ tiêu biểu.
Thứ ba, phát triển rừng và các hệ sinh thái nhằm hấp thụ carbon. Đặc biệt, các hệ sinh thái biển và ven biển. Ví dụ, rừng ngập mặn có tiềm năng hấp thụ khí nhà kính cao gấp 3 đến 5 lần so với rừng trên cạn, theo các nghiên cứu khoa học. Đây là lợi thế lớn mà Việt Nam cần tận dụng để phát triển bền vững.
TS. Nguyễn Tuấn Quang, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Nông nghiệp và Môi trường.
Thứ tư là thu hồi và lưu trữ carbon. Chúng ta có thể tận dụng các mỏ than, mỏ dầu khí đã khai thác hết để thu hồi và lưu trữ carbon tại các tầng địa chất bên dưới. Đây là giải pháp có tiềm năng, dù chi phí còn rất cao. Tuy nhiên, với sự phát triển của khoa học công nghệ, chi phí sẽ ngày càng giảm và giải pháp này hoàn toàn khả thi trong tương lai.
Thứ năm chính là định giá và phát triển thị trường carbon. Hiện nay, đã có 80 quốc gia trên thế giới áp dụng cơ chế định giá carbon. Cơ chế này chủ yếu gồm hai hình thức: thuế carbon và thị trường carbon. Theo thống kê, chỉ riêng giải pháp định giá carbon đã giúp kiểm soát khoảng 28% tổng lượng phát thải khí nhà kính toàn cầu – tương đương khoảng 12 đến 14 tỷ tấn CO₂ mỗi năm. Quy mô giao dịch carbon toàn cầu đạt tới 152 tỷ USD, trong đó riêng một số thị trường đã đạt 102 tỷ USD – cho thấy đây là giải pháp thực sự hiệu quả.
Tại châu Âu, hệ thống thị trường carbon (EU ETS) được triển khai từ năm 2005, giúp giảm khoảng 37% lượng phát thải toàn khu vực này. Hay như Singapore, việc đánh thuế carbon cũng là biện pháp hiệu quả để kiểm soát phát thải. Trung Quốc và nhiều quốc gia khác hiện cũng đang tích cực phát triển thị trường carbon.
Nói sâu hơn về giao dịch tín chỉ carbon, TS. Nguyễn Tuấn Quang cho rằng cần đặc biệt lưu ý 2 vấn đề: Thứ nhất, mỗi loại tín chỉ carbon phải được tạo ra theo tiêu chuẩn và phương pháp tính toán cụ thể, thường được gọi là phương pháp tạo tín chỉ carbon. Những phương pháp này phải đảm bảo minh bạch và tuân thủ đúng quy định.
Thứ hai, việc giao dịch các tín chỉ carbon bắt buộc phải có sự quản lý thống nhất của Nhà nước. Nếu không điều tiết tốt sẽ có hai hệ lụy: Cam kết quốc gia về giảm phát thải sẽ không đạt được nếu tín chỉ bị bán ra nước ngoài không kiểm soát. Thị trường trong nước sẽ bị thiếu hụt nguồn cung tín chỉ cho các ngành đang cần thực hiện nghĩa vụ phát thải.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng đang đối mặt với các cơ chế như CBAM – Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon của châu Âu. Các mặt hàng như sắt thép, xi măng khi xuất khẩu vào châu Âu từ năm 2026 sẽ bị áp hàng rào kỹ thuật liên quan tới phát thải carbon. Nghĩa là, nếu Việt Nam không có sự điều tiết và quản lý chặt chẽ trong giao dịch tín chỉ carbon sẽ có những hậu quả rất nghiêm trọng, cả về kinh tế lẫn khả năng thực hiện cam kết Net Zero.
PGS. Nguyễn Đình Thọ – Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Môi trường.
PGS Nguyễn Đình Thọ – Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Môi trường cũng khẳng định, phát triển thị trường carbon không chỉ góp phần giảm phát thải mà còn mang lại lợi ích kinh tế thiết thực cho doanh nghiệp, người dân và cả Chính phủ.
“Về cơ chế hoạt động, nguyên tắc rất đơn giản, đó là doanh nghiệp nào đầu tư chuyển đổi công nghệ, giảm được phát thải thì có thể bán phần tín chỉ carbon đó cho doanh nghiệp khác chưa hoặc không thể chuyển đổi. Quyết định có nên chuyển đổi công nghệ hay không phụ thuộc vào giá carbon trên thị trường. Nếu giá bán tín chỉ carbon cao hơn chi phí chuyển đổi công nghệ, doanh nghiệp nên đầu tư chuyển đổi.
Ngược lại, nếu giá tín chỉ thấp, doanh nghiệp có thể chọn mua tín chỉ để đáp ứng yêu cầu ngắn hạn và chờ thời điểm thích hợp để đầu tư sau. Đây chính là logic vận hành của thị trường carbon – nơi tín hiệu giá đóng vai trò điều phối hành vi của các bên tham gia. Khi nền tảng được hoàn thiện, doanh nghiệp Việt hoàn toàn có thể làm quen và chủ động tham gia giao dịch trên thị trường này, giống như họ từng làm với thị trường chứng khoán”, PGS. Nguyễn Đình Thọ chia sẻ.
Toàn cảnh chương trình.
Chương trình tiếp tục được lắng nghe nhiều tham luận thiết thực của các nhà khoa học, chuyên gia, doanh nghiệp như: Mô hình Lúa – Tôm phát thải thấp, hiệu quả kinh tế cao tại bán đảo Cà Mau do Anh hùng Lao động, kỹ sư Hồ Quang Cua trình bày; Trung hòa Carbon – kinh nghiệm từ tập đoàn nông nghiệp công nghệ cao TH do Giám đốc Phát triển bền vững Tập đoàn TH trình bày; Bảo vệ và phát triển rừng tự nhiên và cơ hội tham gia thị trường carbon của cộng đồng chủ rừng Cao Quảng – Tuyên Hóa – Quảng Trị do ông Nguyễn Quang Huy – Phó Chủ tịch UBND xã Cao Quảng, đại điện cộng đồng chủ rừng Cao Quảng trình bày;…
Trong khuôn khổ chương trình, Ban tổ chức đã triển khai trao biểu trưng “Hành trình Net Zero Tiêu biểu” cho các dự án, sáng kiến, cá nhân, doanh nghiệp và tổ chức đã thực thi nhiều giải pháp có ý nghĩa lớn để giảm phát thải và trung hòa carbon hoặc có đóng góp quan trọng vào tiến trình giảm phát thải và trung hòa carbon cho cộng đồng. Đây cũng sẽ là hoạt động song song cùng Diễn đàn Net Zero diễn ra hàng năm với các tiêu chí đánh giá khoa học và có giá trị thực tiễn cao.
Theo VietQ.vn
https://vietq.vn/phat-trien-thi-truong-carbon-trong-ky-nguyen-moi-loi-ich-cho-nguoi-dan-doanh-nghiep-va-chinh-phu-d235326.html