Chỉ số tiếp cận điện năng Việt Nam đứng thứ tư trong Asean

Cơ hội giao thương - Chỉ số tiếp cận điện năng đã có bước tiến vượt bậc, trong vòng 5 năm (2013 - 2018) đã cải thiện 129 bậc, vươn lên vị trí 27/190 quốc gia và nền kinh tế vào năm 2019 và hiện đứng thứ 4 trong khu vực Asean.

Thông tin trên được đưa ra tại Hội thảo giới thiệu rộng rãi về Đề án “Quy hoạch phát triển điện lực Quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn tới năm 2045” (Quy hoạch điện VIII) do Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo, Bộ Công Thương phối hợp với Viện Năng lượng tổ chức ngày 28/9/2020.

Theo thông tin tại Hội thảo, quy hoạch điện VII và Quy hoạch điện VII điều chỉnh đã được đưa vào triển khai, thực hiện được gần 10 năm. Nhìn chung, tình hình thực hiện Quy hoạch đạt được nhiều kết quả tốt, đáp ứng cơ bản nhu cầu phụ tải với tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm khoảng 10,5%/năm. Hệ thống điện được vận hành ổn định, an toàn và tin cậy, đáp ứng tốt nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội và đảm bảo an ninh, quốc phòng của đất nước. Cơ cấu nguồn theo chủ sở hữu khá đa đạng, có sự tham gia tích cực của các nhà đầu tư tư nhân.

Đáng chú ý, chỉ số tiếp cận điện năng đã có bước tiến vượt bậc, trong vòng 5 năm (2013-2018) đã cải thiện 129 bậc, vươn lên vị trí 27/190 quốc gia và nền kinh tế vào năm 2019 và hiện đứng thứ 4 trong khu vực Asean. Thị trường phát điện cạnh tranh, bán buôn đã bước đầu hình thành và đang ngày càng hoàn thiện. Công tác bảo vệ môi trường được quan tâm hơn.

Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua ngành điện đối mặt với nhiều thách thức lớn như nhu cầu điện đang tăng trưởng cao, sự phát triển của nguồn điện không cân đối với nhu cầu phụ tải giữa các vùng miền; hệ số đàn hồi điện/GDP còn ở mức cao; tình hình triển khai nhiều dự án nguồn điện lớn, đặc biệt là các dự án nhiệt điện than còn chậm tiến độ; các địa phương chủ yếu ủng hộ các nguồn điện lớn theo xu hướng xanh, sạch; sự phát triển nhanh của các nguồn năng lượng tái tạo khi có các cơ chế khuyến khích phát triển nhưng lưới điện chưa theo kịp dẫn tới thực tế công suất nguồn điện tại một số nơi còn dư thừa, chưa giải tỏa hết. Cơ chế giá điện chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa thu hút được đầu tư, vấn đề bảo vệ môi trường vẫn đặt ra nhiều thách thức…

Thứ trưởng Bộ Công Thương Hoàng Quốc Vượng
Thứ trưởng Bộ Công Thương Hoàng Quốc Vượng

Trong bối cảnh đó, việc lập Quy hoạch điện VIII được mong đợi sẽ đề ra các giải pháp toàn diện để giải quyết vào tháo gỡ các nút thắt hiện nay trong phát triển điện lực.

Theo Thứ trưởng Bộ Công Thương Hoàng Quốc Vượng, Chương trình phát triển nguồn điện giai đoạn tới năm 2030, dự kiến tổng công suất nguồn điện sẽ tăng thêm khoảng gần 80.000 MW so với năm 2020, trong đó các nguồn điện lớn như các nhà máy nhiệt điện than, khí và LNG dự kiến sẽ tăng thêm khoảng trên 30.000 MW; các nhà máy điện gió onshore, offshore và điện mặt trời dự kiến tăng thêm khoảng gần 30.000 MW.

Cũng theo Thứ trưởng Hoàng Quốc Vượng, quy hoạch điện VIII là quy hoạch hạ tầng phát triển điện lực quốc gia, là quy hoạch có tính hệ thống rất cao, có sự gắn kết chặt chẽ với các quy hoạch ngành khác như ngành than, dầu khí, sử dụng tài nguyên, môi trường, năng lượng tái tạo, giao thông, kinh tế xã hội, không gian đô thị… Chính vì vậy, với mong muốn xây dựng được bản Quy hoạch điện VIII có hiệu quả, có tính khả thi khi đi đưa vào triển khai, thực hiện, đáp ứng sự mong mỏi của những cơ quan, tổ chức và cá nhân hoạt động trong lĩnh vực điện lực, cần thiết phải có những cơ chế, chính sách cụ thể và rất đặc thù để có thể triển khai thành công các dự án điện nhằm đảm bảo cung cấp điện ổn định và an toàn phục vụ phát triển kinh tế – xã hội trong giai đoạn tới.

Những kết quả nghiên cứu cho thấy tốc độ tăng trưởng phụ tải giai đoạn 2021 – 2030 được dự báo vẫn ở mức cao, khoảng 8,6% giai đoạn 2021-2025 và 7,2% trong giai đoạn 2026-2030. Nhiều kịch bản phát triển nguồn điện đã được nghiên cứu, xem xét, phân tích thấu đáo . Kịch bản phát triển nguồn điện tối ưu là kịch bản đáp ứng các mục tiêu đề ra của Nghị quyết số 55, hướng tới thân thiện với môi trường và khai thác tối đa lợi ích từ các nguồn năng lượng tái tạo. 

Dự kiến tới năm 2030, công suất đặt toàn hệ thống dự kiến đạt khoảng 138.000 MW và tới năm 2045 khoảng 302.000 MW, trong đó ưu tiên phát triển nguồn năng lượng tái tạo phù hợp với tiềm năng từng vùng/miền bảo đảm an toàn hệ thống; nhiệt điện than có xu hướng giảm dần, tăng nhanh nhiệt điện khí trong cơ cấu phát triển nguồn điện. Mức phát thải khí CO2 sẽ giảm dần, đáp ứng các chỉ tiêu mà Việt Nam đã kết kết với quốc tế.

Đây là những thách thức không nhỏ trong việc đảm bảo an ninh cung cấp điện. Nhu cầu vốn đấu tư hàng năm cho chương trình phát triển nguồn và lưới điện lên tới khoảng 13 tỷ USD/năm giai đoạn 2021-2030 trong khi yêu cầu ngày càng cao về môi trường của các tổ chức quốc tế trong việc xem xét các khoản tín dụng hỗ trợ phát triển nguồn và lưới điện cũng đặt ra nhiều áp lực và thách thức cho việc thực hiện thành công Quy hoạch điện VIII. 

Để giải quyết vấn đề này, nhiều cơ chế chính sách đã được đề xuất trong đó có Cơ chế đấu thầu lựa chọn chủ đầu tư các dự án điện, Cơ chế Xã hội hóa lưới điện truyền tải,… để khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư, phát triển ngành điện.

(Visited 16 times, 1 visits today)