Điểm nhấn năm 2019
Theo báo cáo của Hiệp hội Dệt May Việt Nam (VITAS) về tình hình sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu của ngành dệt may, kết thúc năm 2019, tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành này đạt 39 tỷ USD, giảm 1 tỷ USD so với mục tiêu đặt ra, nhưng thặng dư thương mại đạt mức lớn nhất từ trước tới nay, với 17,7 tỷ USD.
Cụ thể, mức kim ngạch 39 tỷ USD trong năm 2019 đã tương đương với mức tăng trưởng 7,55% so với năm 2018. Kim ngạch nhập khẩu dệt may cả năm 2019 ước đạt 22,38 tỷ USD, tăng 2,21%. Giá trị nhập khẩu phục vụ cho xuất khẩu đạt 19,26 tỷ USD, tăng 4,96%. Như vậy, Việt Nam đã ghi tên là nhà xuất khẩu dệt may lớn thứ 3 thế giới, chỉ sau Trung Quốc, Ấn Độ.
Trên thị trường chứng khoán, cổ phiếu ngành dệt may giảm 2,8% trong năm 2019, thấp hơn so với chỉ số VNIndex. Vì năm 2018 là một năm có cơ sở so sánh cao, nên theo SSI đánh giá ngành TRUNG LẬP từ đầu năm 2019 do chi phí lao động tăng và ảnh hưởng tức thời từ các hiệp định FTA được ký kết chưa đáng kể.
Đưa ra những lý do chính khiến ngành này kém quả quan,Công ty CP chứng khoán Sài Gòn – SSI phân tích, nhiều cổ phiếu hoạt động tốt trong 6 tháng đầu năm năm 2019 nhờ kết quả kinh doanh đáng khích lệ, tiếp tục đà tăng trưởng của năm 2018. Tuy nhiên, khi chiến tranh thương mại trở nên căng thẳng trong nửa cuối năm 2019, đồng Nhân dân tệ mất giá, nhu cầu sợi từ Trung Quốc sụt giảm, khiến các nhà máy sản xuất sợi phải bán phá giá và hàng may mặc của Việt Nam rất khó cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Trong bối cảnh đó, tâm lý người tiêu dùng bất ổn.
VGT (cổ phiếu lớn nhất trong ngành) giảm 10,7% trong năm do lợi nhuận ròng giảm 18% YoY. MSH, STK và TNG tăng lần lượt 18%, 18% và 7% nhờ lợi nhuận ròng tăng mạnh trong 9T2019 (lần lượt tăng 31% YoY, 23% YoY và 34% YoY).
Nêu những điểm chính về ngành dệt may Việt Nam, trong đó có những diễn biến theo đúng dự báo, SSI cho biết, Việt Nam tiếp tục chiếm thị phần sản xuất trong khu vực.
Ảnh minh họa
Theo Vinatex, nhu cầu dệt may thế giới tăng 3,3% YoY trong năm 2019 (năm 2018: 7,4% YoY), trong đó xuất khẩu của Trung Quốc giảm 2,3% YoY trong khi xuất khẩu của Ấn Độ, Bangladesh và Việt Nam tăng lần lượt là 1,4% YoY, 2,4% YoY và 7,3% YoY.
Theo Văn phòng dệt may Hoa Kỳ (OTEXA), nhập khẩu hàng may mặc của Mỹ ước tính tăng 3% YoY trong năm 2019. Trong 11T2019, xuất khẩu hàng may mặc của Trung Quốc sang Mỹ giảm 6,6% YoY, trong khi xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam tăng 10% YoY. Trong giai đoạn 2018-2019, thị phần xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ tăng từ 11,8% lên 12,8%, trong khi thị phần của Trung Quốc giảm từ 36,4% còn 33,4%. Khác với Việt Nam, xuất khẩu của Bangladesh và Campuchia sang Hoa Kỳ cũng có mức tăng trưởng mạnh mẽ đạt 9,9% YoY và 19,5% YoY, tuy nhiên thị phần nhập khẩu sang Mỹ vẫn thấp hơn Việt Nam, lần lượt đạt 5,5% và 2,7%.
Trong 11 tháng của năm 2019, ngành dệt may thu hút được 1,5 tỷ USD vốn FDI. Có dòng vốn đầu tư ngày càng tăng vào phân ngành sợi và sợi màu từ Hàn Quốc và Đài Loan.
Tuy nhiên, SSI cho rằng cũng có một số diễn biến ngoài dự báo. Theo McKinsey Global Fashion Index, tăng trưởng ngành thời trang thế giới đạt 3,5-4,5% YoY trong năm 2019, thấp hơn một chút so với mức tăng trưởng năm 2018 là 4-5% YoY. Ngành thời trang tăng trưởng chậm sau khi đạt hiệu suất mạnh mẽ trong năm 2018. Trong khi có những điểm lạc quan ở Bắc Mỹ và trong phân khúc hàng cao cấp, thì có những khó khăn lớn khiến thương mại gián đoạn và làm nền kinh tế thế giới tăng trưởng chậm. Các thị trường chính ở Châu Á tăng trưởng thấp hơn dự kiến, khiến tăng trưởng cả ngành giảm. Bắc Mỹ và Châu Âu (cả ở thị trường phát triển và thị trường mới nổi) chiếm gần 50% doanh thu tthế giới, đạt 2,5-3,5%, 1,5-2,5% và 4,5-5,5% trong năm 2019.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam ước tính đạt 39 tỷ USD trong năm 2019 (+7,3% YoY), thấp hơn so với kế hoạch của cả nước là 40 tỷ USD. Đây là mức tăng trưởng thấp hơn mức đã đạt được trong 2 năm qua (2017: 10,8% YoY và 2018: 16% YoY). Trong năm 2019, xuất khẩu của Việt Nam sang các thị trường khác chỉ đạt mức tăng trưởng một con số, trong đó thị trường tăng trưởng cao nhất là Mỹ, đạt 8,9% YoY. Theo Vinatex, nhu cầu thế giới bị ảnh hưởng bởi chiến tranh thương mại. Các công ty sản xuất trong nước cho biết sản lượng mỗi đơn hàng giảm, khách hàng không còn đặt hàng trước 3-6 tháng như trước, và giá cả trở nên cạnh tranh hơn.
SSI dự đoán xu hướng này còn tiếp tục diễn ra ít nhất đến Q2/2020.
Khối các doanh nghiệp FDI (chịu trách nhiệm cho khoảng 60% tổng kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam) cũng có hiệu suất thấp, với doanh thu thấp hơn ước tính do giá bông toàn cầu giảm nhanh, và khách hàng thận trọng đặt hàng hơn do lo ngại về chiến tranh thương mại. Tuy nhiên, hầu hết các doanh nghiệp có vốn đầu từ FDI có thể vẫn được hưởng lợi từ hội nhập (một phần sợi và vải tự cung cấp), do đó ảnh hưởng ít nghiêm trọng hơn so với các công ty Việt Nam thuần túy. Tuy nhiên, hầu hết các công ty mong đợi các đơn hàng sẽ phục hồi trong nửa cuối năm 2020.
Trong 9 tháng đầu năm 2019, doanh thu hợp nhất của VGT đạt 13,5 nghìn tỷ đồng (-6,3% YoY và hoàn thành 61% kế hoạch năm), và tổng lợi nhuận trước thuế đạt 564 tỷ đồng (-22,8% YoY và hoàn thành 67% kế hoạch năm).
Một số công ty dệt may địa phương nhỏ hơn ghi nhận kết quả kinh doanh hỗn hợp, nhưng chủ yếu bị ảnh hưởng bởi giá bán bình quân giảm (giá sợi thô giảm 15% YoY) và sản lượng trên mỗi đơn hàng nhỏ (giảm 10% YoY cho sợi thô) do chiến tranh thương mại. TCM bị ảnh hưởng đáng kể do nhu cầu sợi bông từ Trung Quốc, trong khi STK có thể bù đắp được lợi nhuận của sợi tái chế do sợi polyester giảm. MSH ghi nhận mức tăng trưởng lợi nhuận ròng đạt 31% YoY, MSH vẫn là một trong những công ty sản xuất hàng may mặc lớn trong ngành.
Tăng trưởng xuất khẩu có thể được đẩy nhanh khi các đơn hàng chuyển từ Trung Quốc sang Việt Nam
The McKinsey Global Fashion Index dự đoán doanh thu ngành thời trang thế giới sẽ tăng 3-4% YoY trong năm 2020, so với mức 3,5-4,5% YoY trong năm 2019. Mức dự báo thấp hơn phản ánh người tiêu dùng ngày càng thận trọng hơn trong bối cảnh bất ổn về nền kinh tế vĩ mô lớn hơn và những đe dọa từ chiến tranh thương mại tiếp tục diễn ra. Tại thị trường Mỹ và EU, tâm lý người tiêu dùng bất ổn trong khi ở thị trường mới nổi Châu Á-Thái Bình Dương tương đối mạnh nhưng tăng trưởng cũng giảm dần. Lợi ích kinh tế sẽ tiếp tục chảy vào một nhóm nhỏ các công ty hàng đầu được lựa chọn, trong khi các công ty tầm trung càng càng bị chèn ép.
Đối với Việt Nam, SSI ước tính kim ngạch xuất khẩu của ngành sẽ đạt 41,5 tỷ USD đến 42 tỷ USD trong năm 2020 (tăng 6,4%-7,7% YoY). VGT và các chi nhánh đặt mục tiêu hoàn thành 50,9 nghìn tỷ đồng doanh thu (+3,5% YoY) và 1,55 nghìn tỷ đồng lợi nhuận trước thuế (+11,3% YoY). Theo VITAS, hầu hết các công ty vẫn đang đàm phán cho các đơn hàng đến Q2/2020 (chủ yếu là do cạnh tranh về giá), không giống các năm trước.
Tác động tới tăng trưởng xuất khẩu ngành dệt may, SSI dự báo tăng trưởng xuất khẩu có thể được đẩy nhanh khi các đơn hàng chuyển từ Trung Quốc sang Việt Nam tiếp tục diễn ra, đặc biệt là ở các thị trường mới được hưởng lợi từ CPTPP như Canada và Australia.
Đề cập đến các vấn đề và rủi ro, SSI cho biết, mức lương tối thiểu tiếp tục tăng khoảng 5,1%-5,7% trong năm 2020, với tốc độ tương tự như mức tăng năm 2019.
Theo VITAS, Việt Nam đã nâng mức lương tối thiểu lên 12 lần kể từ năm 2008. Khi nhiều nhà máy có vốn đầu tư FDI dịch chuyển và thành lập tại Việt Nam, khả năng cạnh tranh về lương sẽ trở nên khốc liệt hơn giữa các công ty trong nước và các công ty có vốn đầu tư FDI, đẩy lạm phát tiền lương cao hơn và ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận gộp của các công ty. Ngoài ra, chi phí điện và chi phí vận chuyển cũng sẽ ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh.
Ngành dệt may phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu (60%) máy móc, nguyên vật liệu và phụ kiện. Với các quy định khó khăn về nguồn gốc từ CPTPP (sợi chuyển tiếp) và EVFTA (vải chuyển tiếp), các công ty may mặc không có chuỗi giá trị tích hợp đầy đủ ở Việt Nam sẽ không nhận thấy tác động ngay lập tức, vì các công ty này phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu nguyên vật liệu từ Trung Quốc.
Theo VnMedia